Thương mại điện tử là gì?
Ngày nay, thương mại điện tử phát triển mạnh mẽ bởi tốc
độ sử dụng internet cùng với nhiều các công nghệ hiện đại ra đời. Con
người ngày càng ưu thích giao dịch dưới hình thức này bởi những thuận
lợi mà nó mang lại. Ở Việt Nam, khái niệm thương mại điện tử mới xuất
hiện cách đây không lâu. Cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt động thương mại
điện tử ở Việt Nam ra đời khá muộn so với nhiều nước trên thế giới. Cuối
năm 2005, Việt Nam mới có “Luật Giao dịch điện tử” và năm 2006 mới ra
đời Nghị định hướng dẫn thi hành luật này.
Có nhiều khái niệm về thương mại điện
tử (TMĐT), nhưng hiểu một cách tổng quát, TMĐT là việc tiến hành một
phần hay toàn bộ hoạt động thương mại bằng những phương tiện điện tử.
TMĐT vẫn mang bản chất như các hoạt động thương mại truyền thống. Tuy
nhiên, thông qua các phương tiện điện tử mới, các hoạt động thương mại
được thực hiện nhanh hơn, hiệu quả hơn, giúp tiết kiệm chi phí và mở
rộng không gian kinh doanh.
TMĐT càng được biết tới như một phương
thức kinhdoanh hiệu quả từ khi Internet hình thành và phát triển. Chính
vì vậy, nhiều người hiểu TMĐT theo nghĩa cụ thể hơn là giao dịch thương
mại, mua sắm qua Internet và mạng (ví dụ mạng Intranet của doanh
nghiệp).
2. Lợi ích của TMĐT
Lợi ích lớn nhất màTMĐT đem lại chính
là sự tiết kiệm chi phí và tạo thuận lợi cho các bên giao dịch. Giao
dịch bằng phương tiện điện tử nhanh hơn so với giao dịch truyền thống,
ví dụ gửi fax hay thư điện tử thì nội dung thông tin đến tay người nhận
nhanh hơn gửi thư. Các giao dịch qua Internet có chi phí rất rẻ, một
doanh nghiệp có thể gửi thư tiếp thị, chào hàng đến hàng loạt khách hàng
chỉ với chi phí giống như gửi cho một khách hàng. Với TMĐT, các bên có
thể tiến hành giao dịch khi ở cách xa nhau, giữa thành phố với nông
thôn, từ nước này sang nước kia, hay nói cách khác là không bị giới hạn
bởi không gian địa lý. Điều này cho phép các doanh nghiệp tiết kiệm chi
phí đi lại, thời gian gặp mặt trong khi mua bán. Với người tiêu dùng, họ
có thể ngồi tại nhà để đặt hàng, mua sắm nhiều loại hàng hóa, dịch vụ
thật nhanh chóng.
Những lợi ích nhưtrên chỉ có được với
những doanh nghiệp thực sự nhận thức được giá trị của TMĐT. Vì vậy, TMĐT
góp phần thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp để thu được nhiều
lợi ích nhất. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh hội nhập kinh
tế quốc tế, khi các doanh nghiệp trong nước phải cạnh tranh một cách
bình đẳng với các doanh nghiệp nước ngoài.
3. Các loại hình ứng dụng TMĐT
Dựa vào chủ thể của thương mại điện tử, có thể phân chia thương mại điện tử ra các loại hình phổ biến như sau:
- Giao dịch giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp – B2B (business to business);
- Giao dịch giữa doanh nghiệp với khách hàng – B2C (business to consumer);
- Giao dịch giữa doanh nghiệp với cơ quan nhà nước – B2G (business to government);
- Giao dịch trực tiếp giữa các cá nhân với nhau – C2C (consumer to consumer);
- Giao dịch giữa cơ quan nhà nước với cá nhân – G2C (government to consumer).
B2B là loại hình giao
dịch qua các phương tiện điện tử giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp.
Theo Tổ chức Liên hợp quốc về Hợp tác và Phát triển kinh tế (UNCTAD),
TMĐT B2B chiếm tỷ trọng lớn trong TMĐT (khoảng 90%). Các giao dịch B2B
chủ yếu được thực hiện trên các hệ thống ứng dụng TMĐT như mạng giá trị
gia tăng (VAN); dây chuyền cung ứng hàng hoá, dịch vụ (SCM), các sàn
giao dịch TMĐT… Các doanh nghiệp có thể chào hàng, tìm kiếm bạn hàng,
đặt hàng, ký kết hợp đồng, thanh toán qua các hệ thống này. Ở một mức độ
cao, các giao dịch này có thể diễn ra một cách tự động. TMĐT B2B đem
lại nhiều lợi ích thực tế cho doanh nghiệp, đặc biệt giúp giảm các chi
phí về thu thập thông tin tìm hiểu thị trường, quảng cáo, tiếp thị, đàm
phán, tăng các cơ hội kinh doanh,…
B2C là loại hình
giao dịch giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng qua các phương tiện điện
tử. Doanh nghiệp sử dụng các phương tiện điện tử để bán hàng hóa, dịch
vụ tới người tiêu dùng. Người tiêu dùng thông qua các phương tiện điện
tử để lựa chọn, mặc cả, đặt hàng, thanh toán, nhận hàng. Giao dịch B2C
tuy chiếm tỷ trọng ít (khoảng 10%) trong TMĐT nhưng có sự phạm vi ảnh
hưởng rộng. Để tham gia hình thức kinh doanh này, thông thường doanh
nghiệp sẽ thiết lập website, hình thành cơ sở dữ liệu về hàng hoá, dịch
vụ; tiến hành các quy trình tiếp thị, quảng cáo, phân phối trực tiếp tới
người tiêu dùng. TMĐT B2C đem lại lợi ích cho cả doanh nghiệp lẫn người
tiêu dùng. Doanh nghiệp tiết kiệm nhiều chi phí bán hàng do không cần
phòng trưng bày hay thuê người giới thiệu bán hàng, chi phí quản lý cũng
giảm hơn. Người tiêu dùng sẽ cảm thấy thuận tiện vì không phải tới tận
cửa hàng, có khả năng lựa chọn và so sánh nhiều mặt hàng cùng một lúc.
B2G là loại hình
giao dịch giữa doanh nghiệp với cơ quan nhà nước, trong đó cơ quan nhà
nước đóng vai trò khách hàng. Quá trình trao đổi thông tin giữa doanh
nghiệp với cơ quan nhà nước được tiến hành qua các phương tiện điện tử.
Cơ quan nhà nước cũng có thể thiết lập những website tại đó đăng tải
thông tin về nhu cầu mua hàng của các cơ quan nhà nước, tiến hành việc
đấu thầu hàng hoá, dịch vụ và lựa chọn nhà cung cấp trên website. Điều
này một mặt giúp tiết kiệm các chi phí tìm nhà cung cấp, đồng thời giúp
tăng cường tính minh bạch trong hoạt động mua sắm công.
C2C là loại hình giao
dịch giữa các cá nhân với nhau. Sự phát triển của các phương tiện điện
tử làm cho nhiều cá nhân có thể tham gia hoạt động thương mại với tư
cách là người bán, người cung cấp dịch vụ. Một cá nhân có thể tự thiết
lập website để kinh doanh những mặt hàng do mình làm ra hoặc sử dụng một
website có sẵn để đấu giá một số món hàng mình có. C2C góp phần tạo nên
sự đa dạng của thị trường.
G2C là loại hình giao
dịch giữa cơ quan nhà nước với cá nhân. Đây chủ yếu là các giao dịch
mang tính hành chính, nhưng có thể mang những yếu tố của TMĐT. Ví dụ khi
người dân đóng tiền thuế qua mạng, trả phí khi đăng ký hồ sơ trực
tuyến, v.v…
4. Pháp luật về thương mại điện tử
Ngày 1/3/2006, Luật Giao dịch điện tử
Việt Nam chính thức có hiệu lực. Đến cuối năm 2007, bốn trong số năm
nghị định hướng dẫn Luật Giao dịch điện tử đã được ban hành, về cơ bản
hoàn thành khung pháp lý cho việc triển khai ứng dụng giao dịch điện tử
trong các lĩnh vực lớn của đời sống xã hội.
Ngày 9/6/2006, Chính phủ ban hành Nghị
định về Thương mại điện tử với việc thừa nhận chứng từ điện tử có giá
trị pháp lý tương đương chứng từ truyền thống trong mọi hoạt động thương
mại từ chào hàng, chấp nhận chào hàng, giao kết hợp đồng cho đến thực
hiện hợp đồng.
Ngày 15/2/2007, Nghị định số
26/2007/NĐ-CP quy định chi tiết về Chữ ký số và Dịch vụ chứng thực chữ
ký số được ban hành. Nghị định này quy định về chữ ký số và các nội dung
cần thiết liên quan đến sử dụng chữ ký số, bao gồm chứng thư số và việc
quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ chứng thực chữ ký số. Đây là những
quy định nền tảng để thiết lập một cơ chế đảm bảo an ninh an toàn cũng
như độ tin cậy của các giao dịch điện tử, là điều kiện tiên quyết về mặt
kỹ thuật để thúc đẩy ứng dụng thương mại điện tử rộng rãi trong xã hội.
Ngày 23/2/2007,Chính phủ ban hành Nghị
định số 27/2007/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật Giao dịch điện tử
trong hoạt động tài chính. Nghị định này ra đời nhằm đảm bảo các điều
kiện cần thiết để hình thành và phát triển một môi trường giao dịch điện
tử an toàn, hiệu quả; giúp Chính phủ quản lý được giao dịch điện tử
trong hoạt động nghiệp vụ tài chính, giảm thiểu hậu quả xấu phát sinh
trong giao dịch điện tử như trốn thuế, gian lận khi lập hóa đơn chứng
từ.
Ngày 8/3/2007, Nghị định số
35/2007/NĐ-CP về Giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng được ban
hành tập trung hướng dẫn việc áp dụng Luật Giao dịch điện tử cho các
hoạt động ngân hàng cụ thể, bảo đảm những điều kiện cần thiết về môi
trường pháp lý để củng cố, phát triển các giao dịch điện tử an toàn và
hiệu quả đối với hệ thống ngân hàng.
5. Thanh toán điện tử
Thanh toán điện tử là hình thức thanh
toán tiếnhành trên môi trường internet, thông qua hệ thống thanh toán
điện tử người sử dụng mạng có thể tiến hành các hoạt động thanh toán,
chi trả, chuyển tiền, …
Thanh toán điện tửđược sử dụng khi chủ
thể tiến hành mua hàng trên các siêu thị ảo và thanh toán qua mạng. Để
thực hiện việc thanh toán, thì hệ thống máy chủ của siêu thị phải có
được phầm mềm thanh toán trong website của mình.
6. Quảng cáo trên Internet
Cũng như các hình thức quảng cáo khác,
quảng cáo trên mạng nhằm cung cấp thông tin đẩy nhanh tiến độ giao dịch
giữa người bán và người mua. Tuy nhiên, quảng cao trên mạng khác hẳn với
quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng khác vì nó giúp
người tiêu dùng có thể tương tác với quảng cáo. Trên mạng mọi thứ đều có
thể đưa vào quảng cáo, từ bố trí sản phẩm tới thiết kế các ảnh nền phía
sau nội dung quảng cáo, làm cho logo hoặc bất cứ nhãn hiệu sản phẩm nào
cũng trở nên nổi bật. Quảng cáo trên Internet cũng tạo cơ hội cho các
nhà quảng cáo nhắm chính xác vào đối tượng khách hàng của mình và giúp
họ quảng cáo với đúng sở thích và thị hiếu người dùng. Ngoài ra, quảng
cáo trên mạng còn là sự kết hợp của quảng cáo truyền thống và tiếp thị
trực tiếp. Đó là sự kết hợp giữa cung cấp nhãn hiệu, cung cấp thông tin
và trao đổi buôn bán ở cùng một nơi.
* Các hình thức quảng cáo trên Internet
- Quảng cáo bằng các banner, hình ảnh, flash, video, các đoạn text giới thiệu trên website
- Quảng cáo qua E-mail- Quảng cáo trên Website
Sưu tầm Internet
0 nhận xét: